PHẦN III: Thẩm định kỹ năng xã hội cho các trẻ tự kỷ ở các trường mầm non
Chuyên gia Bellini nhấn mạnh (13):
“Bạn không thể nào dạy trẻ tự kỷ về kỹ năng xã hội, nếu bạn chưa biết mình nên dạy những gì cho các em! Không phải tất cả trẻ tự kỷ cần được can thiệp bằng một phương pháp giống hệt nhau. Cũng không phải tất cả trẻ tự kỷ cần được giáo dục những kỹ năng xã hội rập khuôn như nhau. Nhiều giáo viên bắt đầu sự can thiệp về mặt kỹ năng xã hội cho trẻ tự kỷ mà không có sự thẩm định nhu cầu cá biệt của các em tự kỷ.”
Về vấn đề thẩm định kỹ năng xã hội cho trẻ tự kỷ, Bellini nhắc nhở, điều trước tiên là phải dựa vào những mốc phát triển của các trẻ bình thường, cùng độ tuổi trong lớp học để làm chuẩn và làm thước đo khả năng hiện tại của các em tự kỷ về kỹ năng xã hội – những kỹ năng nào các em đã học được và áp dụng thành thạo, hoặc những kỹ năng nào cần được quan tâm và nên tạo cơ hội cho trẻ thực hành.
Giải quyết vấn đề:
- Thẩm định kỹ năng xã hội trước khi vào can thiệp.
Theo các chuyên gia Quill, Bracken và Fair (14), sự thẩm định kỹ năng xã hội cho trẻ tự kỷ phải nhắm vào 3 trọng tâm:
1) Xác định hay ước lượng kỹ năng xã hội của trẻ tự kỷ đã và đang phát triển ở mức độ nào trong thời điểm hiện tại.
2) Tìm hiểu những kỹ năng xã hội nào cần được quan tâm và đầu tư thời gian huấn luyện cho các em trong kế hoạch can thiệp.
3) Theo dõi và ghi nhận sự tiến bộ của các em.
Nhiều công cụ trắc nghiệm có thể được áp dụng để đánh giá kỹ năng xã hội và khả năng giao tiếp bằng lời hoặc không bằng lời của trẻ tự kỷ, dựa vào điểm chuẩn của các em bình thường, không bị tự kỷ, bao gồm (15):
– The Autism Diagnostic Observation Schedule (ADOS).
– The Autism Diagnostic Interview-Revised (ADI-R).
– Childhood Autism Rating Scale (CARS).
– The Social and communication Disorder (SCQ).
– The Diagnostic Interview for Social and Communication Disorders (DISCO).
– The Do-Watch-Listen-Say Assessment of Social and Communication Skills with Autism.
Chẳng 2 trẻ bình thường nào có sự phát triển về kỹ năng xã hội giống hệt nhau. Trẻ tự kỷ cũng vậy. Những gì áp dụng khá thành công cho trẻ nầy không có nghĩa là sẽ có hiệu quả đối với nhiều em khác. Ngoài sự phỏng vấn phụ huynh và quan sát hoạt động của trẻ, vấn đề thẩm định kỹ năng xã hội cho các em tự kỷ đòi hỏi giáo viên, chuyên viên phải tiến hành sự trắc nghiệm và thâu thập dữ kiện trong những môi trường sinh hoạt, học tập khác nhau. Trẻ tự kỷ thường gặp nhiều trở ngại và thiếu sự uyển chuyển khi áp dụng kỹ năng học được ở tình huống giao tiếp nầy sang những tình huống phứt tạp hơn ở nhà trường. Nhiều trẻ tự kỷ có thể biết chào hỏi bạn trong lớp học, nhưng làm ngơ với mọi người trên sân chơi là một ví dụ điển hình. Ngoài ra, sự thẩm định kỹ năng xã hội của trẻ tự kỷ trước và sau khi can thiệp nên được ghi nhận bằng những công cụ có thang bậc (rating scales) nhằm đo lường một cách khách quan về sự tiến bộ hay thối lùi của trẻ.
Những chương trình/chiến lược phát triển ngôn ngữ và kỹ năng xã hội cho trẻ tự kỷ ở Hoa Kỳ
Hầu hết những chương trình phát triển kỹ năng xã hội ở Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác đều tập trung vào 3 mục tiêu chính:
- a) Phân tích từng kỹ năng trẻ tự kỷ đã học và chưa học được.
- b) Dạy theo trình tự.
- c) Trẻ cần biết áp dụng kỹ năng học được trong những tình huống giao tiếp khác nhau.
- Các chương trình dạy kỹ năng xã hội cho trẻ tự kỷ:
Sau đây là những chương trình can thiệp từng được các nhà chuyên môn áp dụng để phát triển kỹ năng xã hội cho trẻ tự kỷ. Người viết đề cập đến chỉ nhằm mục đích cùng các bạn tham khảo. Mong các bạn thận trọng.
1) Chương trình “Do-Watch-Listen-Say” được soạn thảo riêng cho trẻ tự kỷ, dựa vào những kỷ năng xã hội hiện tại đã học hay chưa học được, bao gồm nhiều hoạt động được tổ chức theo khuôn khổ, nề nếp, với chủ trương dạy trẻ những kỹ năng chơi một mình, chơi theo nhóm, giúp trẻ biết nhập cuộc, chờ đợi đến lượt mình, và tuân theo lời hướng dẫn của giáo viên. Chương trình nầy có những mẫu kế hoạch và đo lường hiệu quả can thiệp về kỹ năng xã hội cho trẻ tự kỷ (17).
2) Chương trình “Skillstreaming” chỉ tập trung dạy trẻ những kỹ năng quan trọng nhất. Mặc dù không soạn thảo riêng cho trẻ tự kỷ, nhưng nhiều ý tưởng của Skillstreaming có thể áp dụng ở nhà trẻ để dạy các em những kỹ năng sinh hoạt, học tập qua sự quan sát, trực tiếp hướng dẫn, nhắc nhở, khuyến khích, duy trì những kỹ năng học được. Skillstreaming có 3 chương trình huấn luyện kỹ năng: a) Nhà trẻ (40 kỹ năng), b) Bậc tiểu học (60 kỹ năng), và c) Thanh thiếu niên (50 kỹ năng) (18).
3) Chương trình “Connecting With Others” được soạn thảo nhằm giúp trẻ tự kỷ và những trẻ có nhu cầu đặc biệt phát triển quan hệ xã hội, xây dựng tình bạn và kỹ năng hòa nhập trong các môi trường sinh hoạt, học tập chung, bao gồm (19): Những cảm nghĩ về mình và về người khác, hòa đồng với mọi người, giải quyết vấn đề, truyền đạt ngôn ngữ, chia sẻ, quan tâm và đồng cảm cho nhau. Chương trình nầy có 30 bài tập về kỹ năng có thể áp dụng trong đời sống hàng ngày, và được sắp xếp theo từng lớp bậc; ví dụ, bậc 1 từ lớp nhà trẻ cho đến lớp 2, bậc 2 từ lớp 3-5, bậc 3 từ lớp 6-8, và bậc 4 từ lớp 9-12.
4) Chương trình “Group social skill training” (dạy kỹ năng xã hội cho trẻ tự kỷ theo nhóm): Các bài học về kỹ năng xã hội được phân chia thành từng bước nhỏ, cụ thể và dễ hiểu. Cần lưu ý rằng sự huấn luyện kỹ năng xã hội ở trung tâm hay ở trường học không thể thay đổi được nhiều những khiếm khuyết về khả năng giao tiếp. Nói cách khác, trẻ tự kỷ cần sự thực hành liên tục và nhiều hơn ở gia đình và trong những môi trường sinh hoạt chung ở cộng đồng.
5) Chương trình “Social body language” (Dạy kỹ năng xã hội qua cử chỉ, điệu bộ của cơ thể): Những hành vi không dùng lời, ví dụ, sự giao tiếp bằng mắt, khoảng cách xa gần khi đối thoại, âm giọng, tiếng nói lớn hoặc nhỏ, cảm xúc bày tỏ trên gương mặt là ngôn ngữ của cơ thể, là nền móng cho sự phát triển kỹ năng xã hội. Hầu hết trẻ tự kỷ trong giao tiếp, đều gặp khó khăn đọc hiểu ngôn ngữ thân thể của người khác, kể cả các em tự kỷ thuộc dạng cao. Những bài học trong chương trình nầy gồm có những chủ đề về kỹ năng xây dựng và duy trì tình bạn, kỹ năng đối thoại, hiểu người hiểu mình, giải quyết khó khăn và tránh xung đột, sự tự giác và nhận thức đúng về bản thân (20).
Hiện nay, các nhà chuyên môn ở Hoa Kỳ đồng ý rằng một số chiến lược có thể áp dụng với kết quả tương đối thành công trong vấn đề phát triển kỹ năng xã hội cho trẻ/ học sinh tự kỷ ở nhà trường và gia đình với sự hợp tác khắn khít giữa giáo viên và phụ huynh. Đó là –
1) Vòng tròn bạn hữu (Circle of Friends) (21): Mục đích của “vòng tròn bạn hữu” là sự huấn luyện, chuẩn bị những kỹ năng xã hội cần thiết cho sự hội nhập của trẻ tự kỷ trong tương lai. Vòng tròn bạn hữu có thể áp dụng trong bất cứ môi trường sinh hoạt nào. Vòng tròn bạn hữu (Circle of friends) khác với “thời gian các trẻ và giáo viên quây quần bên nhau” (circle time) ở các lớp nhà trẻ. Những thành viên trong nhóm vòng tròn bạn hữu có thể là giáo viên, phụ giáo, tình nguyện viên, phụ huynh, trẻ tự kỷ và trẻ không bị tự kỷ, hoặc bất cứ ai thật lòng quan tâm đến các em khuyết tật. Sự thành lập vòng tròn bạn hữu và duy trì thời khóa biểu gặp mặt hàng tuần giữa các thành viên trong nhóm không đòi hỏi giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian, bởi vì công việc cổ động tình bạn phần lớn là sự chủ động dẫn dắt của những em người mẫu bình thường, nhằm giúp trẻ tự kỷ có kỹ năng làm quen và kết bạn.
2) Hợp tác và cùng nhau hành động (Joint Action Routines or JAR) (22): Chiến lược nầy đòi hỏi sự tương tác phải có ít nhất là 2 thành viên trở lên. Mục đích của JAR là dạy đối thoại và gia tăng sự hiểu biết nhau qua mối quan hệ tình bạn. Những hoạt động của JAR không có sự bất ngờ, được lặp đi lặp lại, và người trong cuộc có thể đoán biết được chuyện gì sẽ xảy ra. JAR tập cho trẻ tự kỷ thao dợt những công việc thường ngày, chẳng hạn, lấy bài tập ra làm theo yêu cầu, dọn dẹp bàn học cho ngay ngắn vì sắp đến giờ ăn trưa. JAR giúp trẻ tự kỷ cùng nhau chú ý, hợp tác hoàn thành công việc, nhất là cho các em cơ hội diễn đạt ý nghĩ với nhau bằng lời qua những trò chơi tập thể như ráp hình (puzzles), ráp Legos… JAR đặt nặng vấn đề độ tuổi, khả năng chơi, và sở thích cá biệt của từng em tự kỷ trong nhóm.
3) Hợp tác và cùng nhau học tập (Cooperative leaning group) (23),(24): Đây là cách dạy kỹ năng xã hội cho trẻ tự kỷ cùng độ tuổi theo từng nhóm nhỏ, mặt đối mặt, giao tiếp với nhau bằng mắt và cùng nhau trò chuyện. Mỗi trẻ em trong nhóm đều có người hướng dẫn.
Các giáo viên, phụ giáo, hoặc người dẫn dắt sẽ đưa ra những trò chơi tập thể, chẳng hạn, ráp hình (jigsaws) để dạy các em tự kỷ ý nghĩa của tinh thần hợp tác qua sự hình thành jigsaws hay hình ảnh của một vật thể nào đó (25).
4) Dùng mẩu đối thoại bằng lời, có hình ảnh vẽ bằng que (sticks) phụ họa (Comic strip conversation) (26): Đây là sự trình bày đơn giản, giúp trẻ tự kỷ hiểu và hình dung được những gì người khác nói, cảm xúc, và dụng ý của họ qua cuộc đối thoại với mình. Các bạn chỉ cần google thì sẽ thấy nhiều ví dụ rất hay về phương pháp nầy.
5) Lời ý soạn trước (Social scripts) để nhắc nhở hoặc hướng dẫn trẻ tự kỷ đối thoại một cách thích hợp trong tình huống giao tiếp nào đó (27): Cách nầy rất có hiệu quả với điều kiện trẻ tự kỷ biết sử dụng ngôn từ khá rành mạch, nhưng lúng túng và vụng về khi diễn đạt ý muốn. Ví dụ, Một trẻ tự kỷ lớp mẫu giáo, muốn mời bạn học cùng đi xem phim qua điện thoại. Lời ý do phụ huynh soạn sẵn sẽ chuẩn bị cho trẻ cách đối đầu với phương án A và B như sau:
Trẻ tự kỷ: Alô, là Hùng đây. Cường thích đi xem phim chiều nay không?
Phương án A – bạn học (từ chối): Không được. Chiều nay mình phải đi bơi rồi.
Trẻ tự kỷ: Không sao. Lần khác. Cảm ơn bạn.
Phương án B – bạn học (đồng ý): Vui quá. Mình cùng đi nghe.
Trẻ tự kỷ: OK. Ba mình qua nhà xin phép mẹ Cường, đón bạn lúc 4 giờ chiều nay. Bye.
6) Câu chuyện xã hội (Social stories) (28), (29): Đây là những câu chuyện ngắn, được giáo viên và phụ huynh áp dụng để giải thích cho trẻ tự kỷ hiểu vì sao (why?) các em phải mở lời hoặc hành xử như thế nào đó với người khác khi ở phòng mạch bác sỹ, ở siêu thị, ở trên sân chơi, ở trong và ngoài lớp học… Chuyên gia Carol Gray cho rằng lý do khiến trẻ tự kỷ biết dùng lời, nhưng bối rối, vụng về, không thể giao tiếp có hiệu quả trong cộng đồng hoặc trường học là bởi trẻ chưa hiểu được vì sao phải hành động như vậy thì mới thích hợp và được mọi người chấp nhận.
Câu chuyện xã hội – ví dụ 1: Khi Hùng vào lớp, Hùng không nói lớn tiếng. Hùng giữ im lặng. Hùng nghe lời cô. Hùng làm bài thật tốt.
Câu chuyện xã hội – ví dụ 2: Nếu bạn làm phiền, Hùng sẽ nhìn thẳng bạn. Hùng nói bạn ngừng lại. Tôi không thích! Nếu bạn tiếp tục làm phiền, Hùng sẽ lên thưa cô. Hùng không đánh bạn.
7) Trẻ dạy trẻ (Peer coaching or peer mediation) (30): Chiến lược nầy đòi hỏi giáo viên, chuyên viên trong chương trình can thiệp sớm tìm cách tuyển dụng những trẻ bình thường, không bị tự kỷ và cùng độ tuổi, để huấn luyện các em trở thành những người mẫu đảm trách công việc nhắc nhở, khuyến khích, và dìu dắt các em tự kỷ nhập cuộc vào những sinh hoạt, học tập chung. Các nhà chuyên môn nhận thấy rằng sự sắp xếp cho các người mẫu ngồi cạnh con mình, nhưng không có sự tương tác thì sẽ không đem lại lợi ích gì cho trẻ tự kỷ. Vào những năm gần đây, nhiều nghiên cứu cho thấy mức độ trẻ tự kỷ ở các lớp mẫu giáo đã có sự tiến bộ gia tăng gấp 2 lần về sự chú ý, biết chờ đợi đến lượt mình, giao tiếp bằng mắt, so với các chương trình can thiệp khác, nhờ vào sự hỗ trợ tích cực các em người mẫu.
Riêng ở gia đình, cách dùng “trẻ dạy trẻ” có thể áp dụng dựa vào những anh, chị em của trẻ tự kỷ, hoặc những trẻ em hàng xóm. Sự hiện diện của phụ huynh chỉ có tính cách hòa giải những mâu thuẫn, nếu có và sẵn sàng bảo vệ sự an toàn cho đôi bên.
KẾT LUẬN:
– Kỹ năng xã hội không chỉ đơn thuần là những kiến thức căn bản và cần thiết cho đời sống hòa nhập của người tự kỷ trong cộng đồng. Khác với vài thập niên trước đây, hiện tại, nhiều chuyên gia tâm lý, giáo dục đang quan tâm và muốn đưa các chương trình huấn luyện kỹ năng xã hội cho người khuyết tật nói chung, người tự kỷ nói riêng, vào các trường giáo dục đặc biệt công lập, bắt đầu ở các lớp nhà trẻ, không ngoài mục đích phát triển những kỹ năng xã hội thích hợp và cần thiết cho đời sống, sinh hoạt và học tập của con em tự kỷ về sau.
– Các chuyên gia trong chương trình can thiệp sớm cho rằng kỹ năng xã hội là khả năng mở đầu, gợi ý, xây dựng và duy trì mối quan hệ tốt đẹp với mọi người trong những tình huống giao tiếp khác nhau, rằng vấn đề huấn luyện kỹ năng xã hội cho trẻ em được xem là nhiệm vụ hàng đầu của phụ huynh và giáo viên…
– Những em học sinh bị rối loạn phổ tự kỷ hay rối loạn tăng động thiếu chú ý biểu hiện nhiều khiếm khuyết về kỹ năng xã hội, không có sự tương tác hai chiều với người lớn và các bạn cùng độ tuổi thì chắc chắn sẽ gặp vô số trở ngại trong các mối quan hệ giữa người và người. Nhiều nghiên cứu của các nhà tâm lý, giáo dục cho thấy sự phát triển kỹ năng xã hội là con đường dẫn đến sự thành công khi trẻ lớn lên, giúp trẻ bước vào đời bằng sự tin và ý chí tự lập.
– Các chuyên gia quả quyết rằng, nếu không có dịch vụ trợ giúp ngay trong chặng tuổi vàng thì khiếm khuyết về giao tiếp xã hội của trẻ tự kỷ sẽ biểu lộ rõ nét theo thời gian trong giai đoạn từ 3 – 5 tuổi, và mức độ quan tâm, gần gũi với mọi người sẽ ngày càng giảm thiểu, nhất là sự rập khuôn về hành vi, sở thích, hoạt động sẽ gia tăng, ảnh hưởng nghiêm trọng và đối nghịch về mọi mặt trong đời sống của trẻ tự kỷ.
– Chưa hết, khi nói về vấn đề soạn thảo kế hoạch can thiệp, các nhà chuyên môn không quên nhắc nhở chúng ta rằng chẳng 2 trẻ bình thường nào có sự phát triển về kỹ năng xã hội giống hệt nhau, và trẻ tự kỷ cũng vậy. Những gì áp dụng khá thành công cho trẻ nầy không có nghĩa là sẽ có hiệu quả đối với nhiều em khác.
– Sau cùng, bài nầy chỉ là sự giới thiệu tóm tắt về những chương trình can thiệp từng được các nhà chuyên môn áp dụng để phát triển kỹ năng xã hội cho trẻ tự kỷ ở Mỹ. Là phụ huynh, người viết đề cập đến những chiến lược can thiệp về kỹ năng xã hội nêu trên không ngoài mục đích tham khảo cùng các thầy cô và các bạn.
– Tuyệt đối không ủng hộ hay cổ động cho bất cứ phương pháp nào.
Danang Ho
Tài liệu tham khảo
- Bellini S. (2008), Building social relationships: A systematic approach to teaching social interaction skills to children and adolescents with autism spectrum disorders and other social difficulties.
- Quill, Bracken, & Fair (2000), Children with disabilities.
- Pierangelo & Giuliani (2006), The special educator’s comprehensive guide to 301 diagnostic tests.
- Scheurer & Webber (2002), Autism: Teaching does make a difference.
- Kathleen Ann Quill (2000), Do-Watch-Listen-Say.
- McGinnis E. (1997), Skillstreaming the elementary school child: new strategies and perspectives for teaching prosocial skills.
- Richardson R. (1996), Conneting with others.
- Ozonoff & Dawson (2014), A parent’s guide to high-functioning autism spectrum disorder.
- Circle of Friends Training,http://inclusive-solution.com/training.
- Josefa Ben-Arieh (2007), How to use joint action routines.
- Balkcom S. (1992), Cooperative learning.
- Slavin R. J. (1991), Syntheses of research on cooperative learning.
- Jigsaw activities,http://www.educationworld.com/a_…/strategy/strategy036.shtml
- Carol Gray (1994), Comic strip conversation.
- Social scripts for autism- Bundle (2010?).
- Carol Gray (2010), The new social story book.
- www.thegraycenter.org/social-stories/what-are-social-stories
- Ozonoff & Dawson (2014), The social world of children and adolescents with high-functioning autism spectrum disorder.